Nét đẹp văn hóa dân tộc Dao Hà Giang cần được bảo tồn, phát triển
CTTĐT - Đồng bào dân tộc Dao có số dân đông thứ chín trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam; gồm 7 nhóm chính là Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang (Dao Thanh Phán), Dao Quần Trắng, Dao Thanh Y, Dao Làn Tiẻn (Dao Tuyển, Dao Áo Dài). Tại Hà Giang, người Dao chiếm gần 15% dân số toàn tỉnh, cư trú chủ yếu ở các huyện như: Hoàng Su Phì, Vị Xuyên, Quản Bạ, Bắc Mê, Bắc Quang, Quang Bình và Yên Minh.
Dân tộc Dao định cư ở Hà Giang lâu đời và sống thành làng bản. Trải qua nhiều năm lịch sử phát triển tỉnh, đến nay, người Dao cơ bản vẫn duy trì, phát huy được bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình, luôn mến khách, ham học hỏi, sống nương tựa, đoàn kết, giúp đỡ nhau vươn lên trong cuộc sống.
Về nơi ở, người Dao chủ yếu làm nhà ở gần rừng, gần nguồn nước để tiện cho việc sinh hoạt cũng như chăn nuôi, trồng trọt phát triển kinh tế. Theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong xã hội, đồng bào người Dao cũng dần chuyển sang thích ứng với trồng lúa nước trên ruộng bậc thang. Đến nay, những thửa ruộng bậc thang không những là nguồn cung cấp lương thực cho bà con mà còn giúp phát huy được tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy du lịch mạnh mẽ, phát triển kinh tế địa phương như ở huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần…
Một ngôi nhà sàn của người Dao tại Hà Giang phủ rêu mang vẻ đẹp hoài cổ hấp dẫn khách du lịch.
Cấu trúc nhà ở của người Dao cũng khác nhau, tùy điều kiện địa phương và các nhóm Dao mà ở nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất hoặc nhà trệt. Điểm chung là những ngôi nhà của người Dao thường là nhà ba gian hai chái. Bàn thờ đặt ở gian chính giữa, ngoài cửa thường có một ống hương nhỏ thờ thần giữ cửa. Có hai bếp, một bếp trong nhà để nấu ăn, sưởi ấm, là nơi ngồi nói chuyện, quây quần của các thế hệ; bếp thứ hai được đặt bên trái nhà là nơi ủ rượu, nấu rượu và nấu cám lợn.
Về tiếng nói, ngoại trừ nhóm Dao Áo Dài có sự khác biệt lớn, còn lại các nhóm Dao đều chung một ngôn ngữ giao tiếp, có khác nhau chút ít về mặt âm sắc, thanh điệu. Một số bộ phận sống xen cư với người Tày nên trong giao tiếp ngôn ngữ có ảnh hưởng của tiếng Tày. Việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết của dân tộc Dao trong lớp thanh thiếu niên hiện nay đang diễn ra khó khăn bởi sự pha tạp đang rất phổ biến giữa nhiều ngôn ngữ của các tộc người khác, nhất là tiếng phổ thông. Giới trẻ giờ đây không còn mấy người am hiểu, biết hát tiếng dân tộc, cũng chưa tâm huyết với việc lưu giữ các tinh hoa văn hóa dân tộc. Bởi vậy mà chữ viết, các bài vè hát đối đáp đã dần được thay thế bằng các bài hát nhạc hiện đại.
Một bộ trang phục nữ của người Dao Hà Giang.
Người Dao có một số nghề thủ công truyền thống như trồng bông, dệt vải, sửa chữa nông cụ, làm súng hỏa mai, súng kíp, đúc đạn bằng gang, làm giấy bản, ép dầu thắp sáng hay đầu ăn, làm đường mật, làm trang sức bạc, thêu in hoa trên vải bằng sáp ong... Dưới bàn tay của các nghệ nhân, những công cụ, bộ trang phục, trang sức rực rỡ với nhiều hoa văn đa dạng, đặc trưng đã cho thấy cuộc sống nội tâm phong phú và giàu thẩm mỹ của người Dao.
Về văn hóa tín ngưỡng truyền thống cũng rất phong phú thể hiện qua hệ thống lễ hội cổ truyền, các phong tục tập quán lâu đời.Người Dao quan niệm mọi vật đều có linh hồn, bất kể nơi nào cũng tồn tại hồn ma (ma lành và ma dữ). Chính từ quan niệm đó mà việc cúng bái và thực hiện các lễ hội với các nghi lễ tín ngưỡng và trò chơi dân gian mang màu sắc tâm linh huyền bí trở nên rất phổ biến trong cộng đồng, như: Lễ hội Bàn Vương, lễ cấp sắc, lễ Quỹa Hiéng (lễ qua năm), lễ cúng cơm mới, cúng nhảy lửa, hát Páo dung, lễ cầu mưa, cầu phúc, cầu lộc và các nghi lễ vòng đời sinh nở, cưới hỏi, tang ma. Mỗi lễ hội đều chứa đựng màu sắc riêng, không chỉ là một hoạt động văn hóa đơn thuần, mà theo quan niệm của người Dao, đây còn là không gian để con người tiếp cận với thần linh, là “tiếng nói” của con người và thần linh theo quan niệm “vạn vật hữu linh”.
Phụ nữ người Dao gói xôi nếp phục vụ một Nghi lễ quan trọng của thôn. (nguồn: facebook Bậc Thang Vàng Xà Phìn)
Tuy nhiên, cùng với sự giao lưu văn hóa, xã hội, cùng với quá trình hội nhập kinh tế, ngày nay người Dao trẻ đã đơn giản hóa vai trò của các nghi lễ tín ngưỡng. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của thời đại số, các nội dung không lành mạnh chia sẻ trên mạng xã hội dẫn đến thế hệ trẻ ít quan tâm đến việc bảo tồn các phong tục, tập quán, từ đó cái “thiêng” của nghi lễ, lễ hội đã dần bị mai một. Hiện nay, việc bảo tồn, phát huy các bản sắc văn hóa của người Dao ở Hà Giang nói chung hầu hết đều dựa vào tầng lớp trí thức, nghệ nhân người Dao, họ là những thầy cúng thầy bói hiểu biết về thế giới tâm linh của người Dao, am hiểu các phong tục, tập quán, nắm vững lai lịch và mối quan hệ họ hàng của dân làng…
Tuy nhiên, khi tầng lớp này ngày càng già đi, mất dần, các giá trị văn hóa không được ghi chép, truyền dạy cho các thế hệ sau, hoặc được truyền dạy nhưng thiếu tính hệ thống khiến cho vai trò của nghệ nhân, những người có uy tín trong việc tổ chức các lễ hội hằng năm ngày càng thiếu hiệu quả...
Thực hiện các chủ trương, Nghị quyết của Đảng về bảo tồn, giữ gìn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số và cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động ngày 12/6/2001, công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc Dao trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã thu được một số kết quả. Nhiều nơi đã xuất hiện một số mô hình phối hợp về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Dao, như thành lập Hội nghệ nhân dân gian với những hoạt động văn nghệ dân gian, bảo tồn, gìn giữ những làn điệu hát cổ, giới thiệu nhạc cụ truyền thống; tổ chức giao lưu, học hỏi các hội nghệ nhân dân gian trong và ngoài tỉnh; phối hợp với các trường học trên địa bàn tổ chức các hoạt động, các câu lạc bộ truyền dạy văn hóa truyền thống cho học sinh như hát Páo dung, thổi kèn pí lè, đánh trống, chiêng..., giúp các em được tiếp cận, tìm hiểu sâu hơn và yêu thêm những giá trị văn hóa bản sắc của dân tộc mình.
Để công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc Dao đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Hà Giang ngày càng được chú trọng, cần tăng cường việc phối hợp giữa các cấp, các ngành, đẩy mạnh xã hội hoá việc bảo tồn, giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc Dao. Tập trung đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền bằng nhiều hình thức để cán bộ, hội viên, đoàn viên, các tổ chức, các chức sắc tôn giáo, doanh nhân, nắm được thông tin về thực trạng văn hoá của người Dao, từ đó nêu cao công tác bảo tồn, giữ gìn và phát triển văn hóa của dân tộc Dao; kết hợp các hình thức tuyên truyền thông qua báo chí, phát thanh, truyền hình với việc trang bị tài liệu, tờ rơi, đội thông tin lưu động, các hoạt động văn hóa, thể thao, các hội thi, đối thoại tiếp xúc với đồng bào… Coi trọng hình thức phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc Dao; nêu cao công tác tuyên truyền miệng thông qua đội ngũ người tiêu biểu có uy tín, già làng, trưởng bản… Huy động các nguồn lực xã hội hóa, thu hút đầu tư, hỗ trợ nhằm giúp các nghệ nhân duy trì, phát triển ngành, nghề truyền thống của người Dao.
Cùng với sự quan tâm và hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, đồng bào Dao cũng cần tự ý thức giữ gìn, bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Vận động nhân dân thực hiện tốt các quy ước, hương ước của thôn, dòng họ; nghiên cứu, rà soát, đề xuất với cấp ủy, chính quyền nhận diện các nội dung, tập tục lạc hậu cần xóa bỏ, nội dung bản sắc nào cần bảo tồn, nội dung nào trong nghi lễ còn rườm rà cần cải biên cho phù hợp với thời đại nhằm góp phần thực hiện tốt Nghị quyết số 27-NQ/TU, ngày 01/5/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về thực hiện xóa bỏ hủ tục, phong tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh trong nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang.